Ung thư đầu mặt cổ là gì? Các công bố khoa học về Ung thư đầu mặt cổ

Ung thư đầu mặt cổ (hay còn gọi là ung thư da vùng đầu cổ) là một loại ung thư phát triển từ tế bào bị biến đổi ác tính trong vùng da và vành miệng, đầu, cổ và ...

Ung thư đầu mặt cổ (hay còn gọi là ung thư da vùng đầu cổ) là một loại ung thư phát triển từ tế bào bị biến đổi ác tính trong vùng da và vành miệng, đầu, cổ và họng. Loại ung thư này thường bắt đầu từ biến đổi tế bào bị ánh sáng mặt trời gây tổn thương tại vùng da thường tiếp xúc với ánh sáng mặt trời như khuôn mặt, môi, tai, các vết thương, sẹo hoặc vùng da đã bị hư tổn trước đó. Một số yếu tố nguy cơ tăng cho ung thư đầu mặt cổ bao gồm tiếp xúc quá mức với ánh sáng mặt trời, sử dụng giường nắng nhân tạo, xâm lấn vi khuẩn HPV (human papilloma virus), hút thuốc lá và tiếp xúc chất gây ung thư khác như asen, amiang, v.v. Triệu chứng của ung thư đầu mặt cổ có thể bao gồm sự xuất hiện của các vết sưng, vảy da, ánh sáng, chảy máu, hoặc vết loét trên da.
Ung thư đầu mặt cổ là một loại ung thư da phổ biến và có thể gây tử vong nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời.

Nguyên nhân chính của ung thư đầu mặt cổ là do tế bào da bị biến đổi ác tính. Các yếu tố gây tổn thương da và tăng nguy cơ mắc ung thư bao gồm:

1. Tiếp xúc ánh sáng mặt trời: Tia tử ngoại từ ánh sáng mặt trời là yếu tố nguy cơ chính gây ung thư da. Tiếp xúc quá mức với ánh sáng mặt trời, đặc biệt là trong suốt mùa hè hoặc không bảo vệ da đủ, có thể làm tăng nguy cơ mắc ung thư đầu mặt cổ.

2. Sử dụng giường nắng nhân tạo: Tia tử ngoại từ giường nắng nhân tạo cũng có thể gây tổn thương da và tăng nguy cơ ung thư đầu mặt cổ.

3. Vi khuẩn HPV: Nhiễm vi khuẩn HPV (human papilloma virus) có thể tăng nguy cơ mắc ung thư. Nhất là các loại virus HPV có liên quan đến ung thư vùng sinh dục (như HPV-16, 18) có thể lan ra vùng da đầu mặt cổ qua tiếp xúc gần gũi hoặc thông qua việc sử dụng chung nước rửa mặt hoặc khăn mặt với người mang virus.

4. Hút thuốc lá: Hút thuốc lá không chỉ gây tổn hại cho các bộ phận trong cơ thể mà còn làm tăng nguy cơ mắc ung thư da, bao gồm ung thư đầu mặt cổ.

5. Tiếp xúc chất gây ung thư: Tiếp xúc với một số chất gây ung thư như asen, amiang, benzen, v.v. qua công việc hoặc môi trường có thể làm tăng nguy cơ mắc ung thư đầu mặt cổ.

Các triệu chứng của ung thư đầu mặt cổ bao gồm:

1. Vết sưng hoặc kết tủa trên da, có thể có màu da từ hồng đến đỏ sậm.

2. Vảy da, chảy máu hoặc vết loét không lành trên da.

3. Cảm giác đau hoặc khó chịu trong vùng da bị ảnh hưởng.

4. Thay đổi kích thước, hình dạng hoặc màu sắc của nốt ruồi, sẹo hoặc vùng da đã tổn thương trước đó.

Nếu có bất kỳ triệu chứng nêu trên hoặc có nguy cơ ung thư đầu mặt cổ, quan trọng để đi khám và hiểu rõ hơn về tình trạng sức khỏe của bạn từ các chuyên gia y tế.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "ung thư đầu mặt cổ":

Nhận diện tiên đoán tế bào ung thư vú có khả năng hình thành khối u Dịch bởi AI
Proceedings of the National Academy of Sciences of the United States of America - Tập 100 Số 7 - Trang 3983-3988 - 2003

Ung thư vú là loại ung thư phổ biến nhất ở phụ nữ Hoa Kỳ, gây ra hơn 40.000 cái chết mỗi năm. Các khối u vú này bao gồm những dân số tế bào ung thư vú có nhiều kiểu hình đa dạng. Sử dụng mô hình trong đó các tế bào ung thư vú người được nuôi cấy trong chuột suy giảm miễn dịch, chúng tôi nhận thấy rằng chỉ một số ít tế bào ung thư vú có khả năng hình thành khối u mới. Chúng tôi đã phân biệt được giữa các tế bào ung thư có khả năng khởi xướng u (gây u) với các tế bào ung thư không gây u dựa vào biểu hiện dấu mốc trên bề mặt tế bào. Chúng tôi đã tiên đoán nhận diện và cô lập các tế bào gây u như là CD44 + CD24 −/thấp Dòng trong tám trên chín bệnh nhân. Chỉ cần 100 tế bào có kiểu hình này cũng đã có thể hình thành khối u ở chuột, trong khi hàng chục nghìn tế bào có kiểu hình khác không thể hình thành khối u. Quần thể gây u có khả năng được nối nhau liên tục: mỗi lần các tế bào trong quần thể này tạo ra khối u mới chứa thêm các tế bào gây u CD44 + CD24 −/thấp Dòng , cũng như các quần thể hỗn hợp có nhiều kiểu hình đa dạng của các tế bào không gây u có mặt trong khối u ban đầu. Khả năng nhận diện tiên đoán các tế bào ung thư có khả năng gây u sẽ giúp việc làm sáng tỏ các con đường điều tiết sự phát triển và sống sót của chúng. Hơn nữa, bởi vì những tế bào này thúc đẩy sự phát triển khối u, các chiến lược nhằm vào quần thể này có thể dẫn tới các liệu pháp hiệu quả hơn.

#Ung thư vú #tế bào gây u #CD44 #CD24 #Dấu mốc bề mặt tế bào #Chuột suy giảm miễn dịch #Khối u mới #Liệu pháp ung thư
Lo âu và trầm cảm ở bệnh nhân ung thư đường tiêu hóa: liệu việc biết về chẩn đoán ung thư có quan trọng không? Dịch bởi AI
BMC Gastroenterology - - 2007
Tóm tắt Giới thiệu

Ung thư đường tiêu hóa là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong do ung thư ở nam giới và đứng thứ hai ở phụ nữ tại Iran. Một nghiên cứu đã được tiến hành để khảo sát tình trạng lo âu và trầm cảm trong nhóm bệnh nhân này và xem xét liệu việc nhận thức về chẩn đoán ung thư có ảnh hưởng đến nỗi đau tâm lý của họ hay không.

Phương pháp

Đây là một nghiên cứu cắt ngang về lo âu và trầm cảm ở bệnh nhân ung thư đường tiêu hóa đến khám tại Viện Ung thư Tehran. Lo âu và trầm cảm được đo bằng Thang đo Lo âu và Trầm cảm Bệnh viện (HADS). Đây là một bảng hỏi hợp lệ và được sử dụng phổ biến để đo lường nỗi đau tâm lý ở bệnh nhân ung thư. Dữ liệu nhân khẩu học và lâm sàng cũng được thu thập để khảo sát lo âu và trầm cảm trong các nhóm bệnh nhân, đặc biệt là những người biết về chẩn đoán ung thư của mình và những người không biết.

#ung thư #lo âu #trầm cảm #chẩn đoán ung thư #đau khổ tâm lý
Đánh giá kết quả giảm đau trong mổ của phương pháp gây tê mặt phẳng cơ dựng sống thắt lưng hai bên dưới hướng dẫn của siêu âm ở bệnh nhân phẫu thuật cột sống thắt lưng
Nghiên cứu nhằm mục tiêu đánh giá kết quả giảm đau trong mổ của phương pháp gây tê mặt phẳng cơ dựng sống thắt lưng 2 bên dưới hướng dẫn của siêu âm ở bệnh nhân phẫu thuật cột sống thắt lưng. 30 bệnh nhân phẫu thuật cột sống thắt lưng theo chương trình được giảm đau trước mổ bằng phương pháp gây tê mặt phẳng cơ dựng sống thắt lưng dưới hướng dẫn của siêu âm tại Khoa Gây mê Hồi sức và Chống đau – Bệnh viện Đại học Y Hà Nội từ tháng 4 đến tháng 8 năm 2020. Ở nhóm gây tê mặt phẳng cơ dựng sống thắt lưng, điểm đau ANI tại thời điểm H5, H50, H80, H120, H150 trong mổ đều thấp hơn có ý nghĩa (p < 0,05), lượng fentanyl tiêu thụ thấp hơn (183,3[150 - 250] vs 343,3 [300 - 400]mg, p < 0,001) so với nhóm chứng. Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy phương pháp gây tê mặt phẳng cơ dựng sống thắt lưng 2 bên dưới hướng dẫn của siêu âm có hiệu quả giảm đau trong mổ tốt cho các phẫu thuật cột sống thắt lưng.
#gây tê mặt phẳng cơ dựng sống thắt lưng #giảm đau trong mổ #phẫu thuật cột sống thắt lưng.
GIÁ HIỆU QUẢ GIẢM ĐAU SAU MỔ SỎI ĐƯỜNG MẬT CỦA PHƯƠNG PHÁP GÂY TÊ MẶT PHẲNG CƠ DỰNG SỐNG
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 526 Số 1A - 2023
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả giảm đau sau mổ sỏi đường mật và một số tác dụng không mong muốn của phương pháp gây tê mặt phẳng cơ dựng sống. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 60 bệnh nhân phẫu thuật sỏi đường mật, được chia ngẫu nhiên thành 2 nhóm. Nhóm I giảm đau bằng gây tê mặt phẳng cơ dựng sống (ESP) một liều duy nhất mức T7 hai bên trước mổ mỗi bên bằng 20mL Ropivacain 0,25% phối hợp Dexamethasone 0,04%, nhóm II không được gây tê. Cả hai nhóm đều được gây mê nội khí quản và sau mổ sử dụng giảm đau PCA morphin. Kết quả: Nhóm gây tê ESP có thời gian yêu cầu thuốc giảm đau đầu tiên kéo dài hơn so với nhóm không được gây tê (3,60±2,45 giờ so với 0,66±0,31 giờ), ESP giúp giảm lượng morphin tiêu thụ 12h và 24h đầu sau mổ; giảm ý nghĩa điểm VAS lúc nghỉ và vận động trong 18h đầu sau mổ. Tỉ lệ nôn, buồn nôn, ngứa của 2 nhóm là tương đương, không gặp biến chứng nào của ESPB. Kết luận: Gây tê mặt phẳng cơ dựng sống là phương pháp an toàn và hiệu quả cho phẫu thuật sỏi đường mật
#gây mê mặt phẳng cơ dựng sống #phẫu thuật đường mật #giảm đau cho phẫu thuật sỏi mật
Thực trạng dinh dưỡng của người bệnh ung thư đầu mặt cổ tại Bệnh viện Ung bướu Nghệ An năm 2020
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐIỀU DƯỠNG - Tập 3 Số 3 - Trang 28-32 - 2020
Mục tiêu: Mô tả thực trạng dinh dưỡng của người bệnh ung thư Đầu - Mặt - Cổ tại Bệnh viên Ung Bướu Nghệ An năm 2020. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang 100 người bệnh ung thư Đầu Mặt Cổ đang điều trị tại Bệnh viện Ung Bướu Nghệ An thời gian từ tháng 1 đến tháng 3 năm 2020. Sử dụng phương pháp phỏng vấn bảng câu hỏi để thu thập thông tin cá nhân và bộ công cụ PG-SGA để đánh giá tình trạng dinh dưỡng của người bệnh. Kết quả: Có 17% người bệnh có tình trạng dinh dưỡng PG-SGA, 54% người bệnh tình trạng dinh dưỡng PG-SGA B, 29% người bệnh tình trạng dinh dưỡng PG-SGA C. Kết luận: Phần đa người bệnh có tình trạng suy dinh dưỡng.
#Ung thư #ung thư đầu mặt cổ #dinh dưỡng
HIỆU QUẢ GIẢM ĐAU CỦA PHƯƠNG PHÁP GÂY TÊ MẶT DƯỚI CƠ DỰNG SỐNG 1 BÊN (ESP BLOCK) DƯỚI HƯỚNG DẪN SIÊU ÂM CHO PHẪU THUẬT TIM ÍT XÂM LẤN CÓ NỘI SOI
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 514 Số 2 - 2022
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả tăng cường giảm đau trong mổ, giảm đau sau mổ của phương pháp truyền liên tục thuốc tê vào mặt dưới cơ dựng sống 1 bên trên bệnh nhân tim ít xâm lấn (MICS) có nội soi đường ngực phải. Đối tượng và phương pháp: 30 BN (bệnh nhân) tuổi 18 – 75, mổ phiên MICS qua đường ngực phải có hỗ trợ nội soi tại Viện Tim mạch Việt Nam, Bệnh viện Bạch mai từ tháng tháng 11 năm 2018 đến tháng 7 năm 2020, đã được giảm đau bằng kĩ thuật ESPB bên phải. Catheter ESPB thực hiện dưới hướng dẫn siêu âm, đặt sau khi gây mê để phẫu thuật, tiêm ropivacaine 0,5%; 20ml. Khi kết thúc phẫu thuật: BN được truyền ropivacain 0,1% qua catheter ESP liên tục 0,2ml/kg/giờ ; kết hợp với paracetamol truyền tĩnh mạch 1g / 6h; BN được đánh giá điểm visual analogue scale (VAS) khi nghỉ, khi vận động tại các thời điểm trong vòng 72 giờ sau rút nội khí quản, lượng opioid dùng thêm, các tác dụng phụ. Kết quả: Hiệu quả tăng cường giảm đau trong mổ tốt, lượng fentanyl tiêu thụ 212,51 ± 71,58 µg; điểm VAS trung bình khi nghỉ, khi vận động < 4,  có 5 BN  (16,7%) cần dùng thêm PCA morphine tĩnh mạch, với lượng dùng thêm: trong 24h, 48h, 72h lần lượt: 4mg, 8mg, 14,2mg. Trong nghiên cứu không gặp các biến chứng nặng liên quan đến ESPB. Kết luận: Phương pháp ESPB có hiệu quả tăng cường giảm đau trong mổ, giảm đau sau mổ tốt mà không gặp các biến chứng nặng liên quan đến phương pháp ESPB
#Giảm đau morphin tĩnh mạch bệnh nhân tự điều khỉển #giảm đau sau mổ #gây tê mặt dưới cơ dựng sống #phẫu thuật tim ít xâm lấn
So sánh hiệu quả giảm đau giữa gây tê mặt phẳng cơ dựng sống và truyền tĩnh mạch liên tục morphin do bệnh nhân tự kiểm soát sau phẫu thuật tim hở với tuần hoàn ngoài cơ thể
Đau sau phẫu thuật tim hở với tuần hoàn ngoài cơ thể (THNCT) luôn là nỗi ám ảnh của người bệnh và là mối quan tâm hàng đầu của bác sĩ Gây mê hồi sức. Các đối tượng bị cơn đau cấp tính hoặc mãn tính sẽ gặp phải tình trạng giảm khả năng tập trung, suy giảm trí nhớ, giảm linh hoạt trong khả năng giải quyết vấn đề và tốc độ xử lý thông tin. Hiện nay có hai phương pháp giảm đau được sử dụng nhiều nhất là giảm đau do bệnh nhân tự kiểm soát (PCA: patient-controlled analgesia) và gây tê mặt phẳng cơ dựng sống dưới hướng dẫn của siêu âm (ESP: erector spinae plane). Mục tiêu của nghiên cứu là so sánh hiệu quả giảm đau sau mổ giữa gây tê mặt phẳng cơ dựng sống (ESP) và giảm đau do bệnh nhân tự kiểm soát (PCA) trên bệnh nhân phẫu thuật tim hở với THNCT và đánh giá một số tác dụng không mong muốn của hai kỹ thuật giảm đau này. Đối tượng và phương pháp: 204 bệnh nhân người lớn được phẫu thuật tim hở với tuần hoàn ngoài cơ thể từ tháng 5/2020 đến tháng 9/2021 tại Khoa Gây mê hồi sức-Bệnh viện Tim Hà Nội được chia làm 2 nhóm: nhóm ESP (108 bệnh nhân) được giảm đau sau mổ bằng sử dụng gây tê mặt phẳng cơ dựng sống và nhóm PCA (96 bệnh nhân) được giảm đau sau mổ bằng truyền morphin liên tục do bệnh nhân tự kiểm soát. Chúng tôi so sánh mức độ đau của hai nhóm bằng việc sử dụng thang điểm VAS, lượng fentanyl sử dụng trong mổ, lượng morphin sử dụng, thời gian tỉnh và thời gian rút nội khí quản sau mổ cũng như một số tác dụng không mong muốn gặp phải trong 24 giờ sau mổ. Kết quả: Điểm VAS trung bình khi BN nằm yên hít thở sâu tại các thời điểm đánh giá ở hai nhóm đều dưới 3 (tương ứng với mức độ đau ít) (p>0,05). Lượng fentanyl trung bình trong mổ ở nhóm ESP (0,57±0,50 mg) thấp hơn so với nhóm PCA (1,00±0,00 mg) (p<0,05). Lượng morphin tiêu thụ trung bình trong 24 giờ sau mổ ở nhóm ESP (0,23±0,12 mg) thấp hơn có ý nghĩa so với nhóm PCA (17,92±3,32 mg) (p<0,05). Thời gian tỉnh sau mổ (3,80±1,02 giờ ở nhóm ESP; 5,21±1,10 giờ ở nhóm PCA), thời gian rút nội khí quản trung bình (ở nhóm ESP là 8,06±1,60 giờ; ở nhóm PCA là 8,83±1,43 giờ) đều thấp hơn có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Tỷ lệ buồn nôn trong nhóm ESP (20,98%) thấp hơn so với nhóm PCA (58,33%) (p<0,05). Kết luận: Cả hai phương pháp có hiệu quả giảm đau tốt với điểm VAS trung bình ≤ 3. Nhóm ESP có lượng tiêu thụ morphin trung bình sau mổ thấp hơn, mức độ hài lòng của BN cao hơn và tỷ lệ buồn nôn, nôn, thở chậm ít hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm PCA.
#gây tê mặt phẳng cơ dựng sống #giảm đau do bệnh nhân tự kiểm soát #phẫu thuật tim hở với tuần hoàn ngoài cơ thể
Thực trạng và một số yếu tố liên quan đến tình trạng dinh dưỡng Pg-Sga của người bệnh ung thư đầu mặt cổ tại Bệnh viện Ung Bướu Nghệ An năm 2020
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐIỀU DƯỠNG - Tập 3 Số 5 - Trang 198-207 - 2020
Mục tiêu: Mô tả thực trạng và xác định một số yếu tố liên quan đến tình trạng dinh dưỡng của người bệnh ung thư Đầu - Mặt - Cổ. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu thực hiện trên 100 người bệnh ung thư đầu mặt cổ tại Bệnh viện Ung Bướu Nghệ An từ tháng 1 đến tháng 3/2020 bằng phương pháp nghiên cứu mô tả cắt ngang. Số liệu được thu thập bằng bộ công cụ PG-SGA, khẩu phần ăn 24h và xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS 20.0. Kết quả: Tình trạng dinh dưỡng của người bệnh theo PG-SGA: Có 17% người bệnh có tình trạng dinh dưỡng PG-SGA A, 54% người bệnh tình trạng dinh dưỡng PG-SGA B, 29% người bệnh tình trạng dinh dưỡng PG-SGA C. Thói quen sử dụng thuốc lá/thuốc lào, tìm hiểu dinh dưỡng có mối liên quan với tình trạng dinh dưỡng PG-SGA với p<0,05. Phương pháp điều trị bệnh, giai đoạn bệnh, năng lượng khẩu phần ăn 24h có mối liên quan với tình trạng dinh dưỡng PG-SGA với p<0,05. Kết luận: Phần đa người bệnh có tình trạng suy dinh dưỡng. Thói quen sử dụng thuốc lá/thuốc lào, tìm hiểu dinh dưỡng có mối liên quan với tình trạng dinh dưỡng PG-SGA với p<0,05. Phương pháp điều trị bệnh, giai đoạn bệnh, năng lượng khẩu phần ăn 24h có mối liên quan với tình trạng dinh dưỡng PG-SGA với p<0,05.
#Ung thư #ung thư đầu mặt cổ #dinh dưỡng.
5. Đánh giá tác dụng kéo dài giảm đau sau mổ bằng dexamethasone phối hợp ropivacain trong gây tê mặt phẳng cơ dựng sống cho phẫu thuật cột sống thắt lưng
Tạp chí Nghiên cứu Y học - Tập 180 Số 7 - Trang 36-44 - 2024
Nghiên cứu can thiệp lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng được thực hiện từ tháng 10/2022 - tháng 9/2023 tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội nhằm đánh giá tác dụng kéo dài giảm đau sau mổ bằng dexamethasone phối hợp ropivacain trong gây tê mặt phẳng cơ dựng sống cho phẫu thuật cột sống thắt lưng. 70 bệnh nhân phẫu thuật cột sống thắt lưng theo kế hoạch được giảm đau trước mổ bằng gây tê mặt phẳng cơ dựng sống chia thành hai nhóm: nhóm sử dụng dexamethasone phối hợp ropivacain và nhóm ropivacain đơn thuần. Kết quả cho thấy, nhóm phối hợp dexamethsone có thời gian kéo dài giảm đau (6,35 ± 0,54 giờ) lớn hơn đáng kể so với nhóm chứng (3,38 ± 0,46 giờ), lượng morphin trong 24 giờ đầu sau phẫu thuật thấp hơn đáng kể (8,74 ± 3,56mg so với 16,32 ± 6,54mg, p < 0,05), điểm đau VAS khi nghỉ và vận động đều giảm có ý nghĩa ở các thời điểm 4, 6, 8, 12 giờ (p < 0,05). Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy dexamethasone phối hợp với ropivacain trong gây tê mặt phẳng cơ dựng sống cho phẫu thuật cột sống thắt lưng có tác dụng kéo dài thời gian giảm đau đồng thời giảm tiêu thụ opioid.
#Gây tê mặt phẳng cơ dựng sống thắt lưng #dexamethasone #ropivacain #phẫu thuật cột sống thắt lưng #tác dụng kéo dài giảm đau sau mổ
Giá trị chẩn đoán của con đường lipocalin liên kết với gelatinase bạch cầu trung tính/matrix metalloproteinase-9 trong ung thư biểu mô tế bào chuyển tiếp của bàng quang Dịch bởi AI
Tumor Biology - Tập 37 - Trang 9855-9863 - 2016
Lipocalin liên kết với gelatinase bạch cầu trung tính (NGAL), matrix metalloproteinase (MMP)-9 và phức hợp NGAL/MMP-9 đã được đánh giá như là các dấu hiệu chẩn đoán của một số loại ung thư, nhưng kết quả cho ung thư bàng quang còn hạn chế. Chúng tôi đã đánh giá các protein này trong nước tiểu và huyết thanh của 89 bệnh nhân có ung thư bàng quang được xác nhận bằng mô bệnh học và 119 đối chứng không có ung thư từ một nghiên cứu trường hợp-đối chứng. Nồng độ trong nước tiểu được điều chỉnh theo mức creatinine. Hiệu suất của các protein này như là các dấu hiệu sinh học ung thư được đánh giá thông qua phân tích đường đặc tính hoạt động nhận dạng (ROC). Mức NGAL, MMP-9 và phức hợp NGAL/MMP-9 trong nước tiểu cao hơn ở những người hút thuốc hiện tại, trong khi không quan sát thấy tác động của thói quen ăn uống. Sau khi điều chỉnh cho việc hút thuốc, nồng độ MMP-9 trong nước tiểu có liên quan độc lập với tính xâm lấn của ung thư, phân loại và kiểu mô, với các nồng độ tăng cao ở ung thư bàng quang T2–T4 và không loại nhú. Ngược lại, NGAL và phức hợp NGAL/MMP-9 cao hơn đáng kể ở kiểu không nhú so với kiểu nhú. Mô hình trong huyết thanh ít rõ ràng hơn, nhưng sự tương quan giữa nồng độ nước tiểu và huyết thanh là kém, đặc biệt là đối với các khối u Ta/is–T1. Phân tích ROC xác nhận rằng MMP-9 là dấu hiệu tốt nhất (diện tích dưới đường cong ROC (AUC) = 0.68). Hiệu suất cao hơn nhiều đối với các bệnh ung thư bàng quang xâm lấn cơ (AUC = 0.90), với các giá trị tiên đoán âm cao (97 %). Nghiên cứu hiện tại gợi ý rằng con đường NGAL/MMP-9 liên quan đến kiểu hình xâm lấn của ung thư bàng quang. Giá trị tiên đoán âm cao của MMP-9 và phức hợp NGAL/MMP-9 khiến chúng trở thành các dấu hiệu ứng cử cho ung thư bàng quang. Những protein này có thể được tích hợp trong việc giám sát ung thư bàng quang, từ đó giảm bớt sự khó chịu của bệnh nhân và cải thiện sự tuân thủ.
#NGAL #MMP-9 #ung thư bàng quang #dấu hiệu sinh học #nghiên cứu trường hợp-đối chứng
Tổng số: 35   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4