Ung thư đầu mặt cổ là gì? Các công bố khoa học về Ung thư đầu mặt cổ

Ung thư đầu mặt cổ (hay còn gọi là ung thư da vùng đầu cổ) là một loại ung thư phát triển từ tế bào bị biến đổi ác tính trong vùng da và vành miệng, đầu, cổ và ...

Ung thư đầu mặt cổ (hay còn gọi là ung thư da vùng đầu cổ) là một loại ung thư phát triển từ tế bào bị biến đổi ác tính trong vùng da và vành miệng, đầu, cổ và họng. Loại ung thư này thường bắt đầu từ biến đổi tế bào bị ánh sáng mặt trời gây tổn thương tại vùng da thường tiếp xúc với ánh sáng mặt trời như khuôn mặt, môi, tai, các vết thương, sẹo hoặc vùng da đã bị hư tổn trước đó. Một số yếu tố nguy cơ tăng cho ung thư đầu mặt cổ bao gồm tiếp xúc quá mức với ánh sáng mặt trời, sử dụng giường nắng nhân tạo, xâm lấn vi khuẩn HPV (human papilloma virus), hút thuốc lá và tiếp xúc chất gây ung thư khác như asen, amiang, v.v. Triệu chứng của ung thư đầu mặt cổ có thể bao gồm sự xuất hiện của các vết sưng, vảy da, ánh sáng, chảy máu, hoặc vết loét trên da.
Ung thư đầu mặt cổ là một loại ung thư da phổ biến và có thể gây tử vong nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời.

Nguyên nhân chính của ung thư đầu mặt cổ là do tế bào da bị biến đổi ác tính. Các yếu tố gây tổn thương da và tăng nguy cơ mắc ung thư bao gồm:

1. Tiếp xúc ánh sáng mặt trời: Tia tử ngoại từ ánh sáng mặt trời là yếu tố nguy cơ chính gây ung thư da. Tiếp xúc quá mức với ánh sáng mặt trời, đặc biệt là trong suốt mùa hè hoặc không bảo vệ da đủ, có thể làm tăng nguy cơ mắc ung thư đầu mặt cổ.

2. Sử dụng giường nắng nhân tạo: Tia tử ngoại từ giường nắng nhân tạo cũng có thể gây tổn thương da và tăng nguy cơ ung thư đầu mặt cổ.

3. Vi khuẩn HPV: Nhiễm vi khuẩn HPV (human papilloma virus) có thể tăng nguy cơ mắc ung thư. Nhất là các loại virus HPV có liên quan đến ung thư vùng sinh dục (như HPV-16, 18) có thể lan ra vùng da đầu mặt cổ qua tiếp xúc gần gũi hoặc thông qua việc sử dụng chung nước rửa mặt hoặc khăn mặt với người mang virus.

4. Hút thuốc lá: Hút thuốc lá không chỉ gây tổn hại cho các bộ phận trong cơ thể mà còn làm tăng nguy cơ mắc ung thư da, bao gồm ung thư đầu mặt cổ.

5. Tiếp xúc chất gây ung thư: Tiếp xúc với một số chất gây ung thư như asen, amiang, benzen, v.v. qua công việc hoặc môi trường có thể làm tăng nguy cơ mắc ung thư đầu mặt cổ.

Các triệu chứng của ung thư đầu mặt cổ bao gồm:

1. Vết sưng hoặc kết tủa trên da, có thể có màu da từ hồng đến đỏ sậm.

2. Vảy da, chảy máu hoặc vết loét không lành trên da.

3. Cảm giác đau hoặc khó chịu trong vùng da bị ảnh hưởng.

4. Thay đổi kích thước, hình dạng hoặc màu sắc của nốt ruồi, sẹo hoặc vùng da đã tổn thương trước đó.

Nếu có bất kỳ triệu chứng nêu trên hoặc có nguy cơ ung thư đầu mặt cổ, quan trọng để đi khám và hiểu rõ hơn về tình trạng sức khỏe của bạn từ các chuyên gia y tế.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "ung thư đầu mặt cổ":

Nhận diện tiên đoán tế bào ung thư vú có khả năng hình thành khối u Dịch bởi AI
Proceedings of the National Academy of Sciences of the United States of America - Tập 100 Số 7 - Trang 3983-3988 - 2003

Ung thư vú là loại ung thư phổ biến nhất ở phụ nữ Hoa Kỳ, gây ra hơn 40.000 cái chết mỗi năm. Các khối u vú này bao gồm những dân số tế bào ung thư vú có nhiều kiểu hình đa dạng. Sử dụng mô hình trong đó các tế bào ung thư vú người được nuôi cấy trong chuột suy giảm miễn dịch, chúng tôi nhận thấy rằng chỉ một số ít tế bào ung thư vú có khả năng hình thành khối u mới. Chúng tôi đã phân biệt được giữa các tế bào ung thư có khả năng khởi xướng u (gây u) với các tế bào ung thư không gây u dựa vào biểu hiện dấu mốc trên bề mặt tế bào. Chúng tôi đã tiên đoán nhận diện và cô lập các tế bào gây u như là CD44 + CD24 −/thấp Dòng trong tám trên chín bệnh nhân. Chỉ cần 100 tế bào có kiểu hình này cũng đã có thể hình thành khối u ở chuột, trong khi hàng chục nghìn tế bào có kiểu hình khác không thể hình thành khối u. Quần thể gây u có khả năng được nối nhau liên tục: mỗi lần các tế bào trong quần thể này tạo ra khối u mới chứa thêm các tế bào gây u CD44 + CD24 −/thấp Dòng , cũng như các quần thể hỗn hợp có nhiều kiểu hình đa dạng của các tế bào không gây u có mặt trong khối u ban đầu. Khả năng nhận diện tiên đoán các tế bào ung thư có khả năng gây u sẽ giúp việc làm sáng tỏ các con đường điều tiết sự phát triển và sống sót của chúng. Hơn nữa, bởi vì những tế bào này thúc đẩy sự phát triển khối u, các chiến lược nhằm vào quần thể này có thể dẫn tới các liệu pháp hiệu quả hơn.

#Ung thư vú #tế bào gây u #CD44 #CD24 #Dấu mốc bề mặt tế bào #Chuột suy giảm miễn dịch #Khối u mới #Liệu pháp ung thư
GIÁ HIỆU QUẢ GIẢM ĐAU SAU MỔ SỎI ĐƯỜNG MẬT CỦA PHƯƠNG PHÁP GÂY TÊ MẶT PHẲNG CƠ DỰNG SỐNG
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 526 Số 1A - 2023
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả giảm đau sau mổ sỏi đường mật và một số tác dụng không mong muốn của phương pháp gây tê mặt phẳng cơ dựng sống. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 60 bệnh nhân phẫu thuật sỏi đường mật, được chia ngẫu nhiên thành 2 nhóm. Nhóm I giảm đau bằng gây tê mặt phẳng cơ dựng sống (ESP) một liều duy nhất mức T7 hai bên trước mổ mỗi bên bằng 20mL Ropivacain 0,25% phối hợp Dexamethasone 0,04%, nhóm II không được gây tê. Cả hai nhóm đều được gây mê nội khí quản và sau mổ sử dụng giảm đau PCA morphin. Kết quả: Nhóm gây tê ESP có thời gian yêu cầu thuốc giảm đau đầu tiên kéo dài hơn so với nhóm không được gây tê (3,60±2,45 giờ so với 0,66±0,31 giờ), ESP giúp giảm lượng morphin tiêu thụ 12h và 24h đầu sau mổ; giảm ý nghĩa điểm VAS lúc nghỉ và vận động trong 18h đầu sau mổ. Tỉ lệ nôn, buồn nôn, ngứa của 2 nhóm là tương đương, không gặp biến chứng nào của ESPB. Kết luận: Gây tê mặt phẳng cơ dựng sống là phương pháp an toàn và hiệu quả cho phẫu thuật sỏi đường mật
#gây mê mặt phẳng cơ dựng sống #phẫu thuật đường mật #giảm đau cho phẫu thuật sỏi mật
So sánh hiệu quả giảm đau giữa gây tê mặt phẳng cơ dựng sống và truyền tĩnh mạch liên tục morphin do bệnh nhân tự kiểm soát sau phẫu thuật tim hở với tuần hoàn ngoài cơ thể
Đau sau phẫu thuật tim hở với tuần hoàn ngoài cơ thể (THNCT) luôn là nỗi ám ảnh của người bệnh và là mối quan tâm hàng đầu của bác sĩ Gây mê hồi sức. Các đối tượng bị cơn đau cấp tính hoặc mãn tính sẽ gặp phải tình trạng giảm khả năng tập trung, suy giảm trí nhớ, giảm linh hoạt trong khả năng giải quyết vấn đề và tốc độ xử lý thông tin. Hiện nay có hai phương pháp giảm đau được sử dụng nhiều nhất là giảm đau do bệnh nhân tự kiểm soát (PCA: patient-controlled analgesia) và gây tê mặt phẳng cơ dựng sống dưới hướng dẫn của siêu âm (ESP: erector spinae plane). Mục tiêu của nghiên cứu là so sánh hiệu quả giảm đau sau mổ giữa gây tê mặt phẳng cơ dựng sống (ESP) và giảm đau do bệnh nhân tự kiểm soát (PCA) trên bệnh nhân phẫu thuật tim hở với THNCT và đánh giá một số tác dụng không mong muốn của hai kỹ thuật giảm đau này. Đối tượng và phương pháp: 204 bệnh nhân người lớn được phẫu thuật tim hở với tuần hoàn ngoài cơ thể từ tháng 5/2020 đến tháng 9/2021 tại Khoa Gây mê hồi sức-Bệnh viện Tim Hà Nội được chia làm 2 nhóm: nhóm ESP (108 bệnh nhân) được giảm đau sau mổ bằng sử dụng gây tê mặt phẳng cơ dựng sống và nhóm PCA (96 bệnh nhân) được giảm đau sau mổ bằng truyền morphin liên tục do bệnh nhân tự kiểm soát. Chúng tôi so sánh mức độ đau của hai nhóm bằng việc sử dụng thang điểm VAS, lượng fentanyl sử dụng trong mổ, lượng morphin sử dụng, thời gian tỉnh và thời gian rút nội khí quản sau mổ cũng như một số tác dụng không mong muốn gặp phải trong 24 giờ sau mổ. Kết quả: Điểm VAS trung bình khi BN nằm yên hít thở sâu tại các thời điểm đánh giá ở hai nhóm đều dưới 3 (tương ứng với mức độ đau ít) (p>0,05). Lượng fentanyl trung bình trong mổ ở nhóm ESP (0,57±0,50 mg) thấp hơn so với nhóm PCA (1,00±0,00 mg) (p<0,05). Lượng morphin tiêu thụ trung bình trong 24 giờ sau mổ ở nhóm ESP (0,23±0,12 mg) thấp hơn có ý nghĩa so với nhóm PCA (17,92±3,32 mg) (p<0,05). Thời gian tỉnh sau mổ (3,80±1,02 giờ ở nhóm ESP; 5,21±1,10 giờ ở nhóm PCA), thời gian rút nội khí quản trung bình (ở nhóm ESP là 8,06±1,60 giờ; ở nhóm PCA là 8,83±1,43 giờ) đều thấp hơn có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Tỷ lệ buồn nôn trong nhóm ESP (20,98%) thấp hơn so với nhóm PCA (58,33%) (p<0,05). Kết luận: Cả hai phương pháp có hiệu quả giảm đau tốt với điểm VAS trung bình ≤ 3. Nhóm ESP có lượng tiêu thụ morphin trung bình sau mổ thấp hơn, mức độ hài lòng của BN cao hơn và tỷ lệ buồn nôn, nôn, thở chậm ít hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm PCA.
#gây tê mặt phẳng cơ dựng sống #giảm đau do bệnh nhân tự kiểm soát #phẫu thuật tim hở với tuần hoàn ngoài cơ thể
HIỆU QUẢ GIẢM ĐAU CỦA PHƯƠNG PHÁP GÂY TÊ MẶT DƯỚI CƠ DỰNG SỐNG 1 BÊN (ESP BLOCK) DƯỚI HƯỚNG DẪN SIÊU ÂM CHO PHẪU THUẬT TIM ÍT XÂM LẤN CÓ NỘI SOI
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 514 Số 2 - 2022
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả tăng cường giảm đau trong mổ, giảm đau sau mổ của phương pháp truyền liên tục thuốc tê vào mặt dưới cơ dựng sống 1 bên trên bệnh nhân tim ít xâm lấn (MICS) có nội soi đường ngực phải. Đối tượng và phương pháp: 30 BN (bệnh nhân) tuổi 18 – 75, mổ phiên MICS qua đường ngực phải có hỗ trợ nội soi tại Viện Tim mạch Việt Nam, Bệnh viện Bạch mai từ tháng tháng 11 năm 2018 đến tháng 7 năm 2020, đã được giảm đau bằng kĩ thuật ESPB bên phải. Catheter ESPB thực hiện dưới hướng dẫn siêu âm, đặt sau khi gây mê để phẫu thuật, tiêm ropivacaine 0,5%; 20ml. Khi kết thúc phẫu thuật: BN được truyền ropivacain 0,1% qua catheter ESP liên tục 0,2ml/kg/giờ ; kết hợp với paracetamol truyền tĩnh mạch 1g / 6h; BN được đánh giá điểm visual analogue scale (VAS) khi nghỉ, khi vận động tại các thời điểm trong vòng 72 giờ sau rút nội khí quản, lượng opioid dùng thêm, các tác dụng phụ. Kết quả: Hiệu quả tăng cường giảm đau trong mổ tốt, lượng fentanyl tiêu thụ 212,51 ± 71,58 µg; điểm VAS trung bình khi nghỉ, khi vận động < 4,  có 5 BN  (16,7%) cần dùng thêm PCA morphine tĩnh mạch, với lượng dùng thêm: trong 24h, 48h, 72h lần lượt: 4mg, 8mg, 14,2mg. Trong nghiên cứu không gặp các biến chứng nặng liên quan đến ESPB. Kết luận: Phương pháp ESPB có hiệu quả tăng cường giảm đau trong mổ, giảm đau sau mổ tốt mà không gặp các biến chứng nặng liên quan đến phương pháp ESPB
#Giảm đau morphin tĩnh mạch bệnh nhân tự điều khỉển #giảm đau sau mổ #gây tê mặt dưới cơ dựng sống #phẫu thuật tim ít xâm lấn
Thực trạng dinh dưỡng của người bệnh ung thư đầu mặt cổ tại Bệnh viện Ung bướu Nghệ An năm 2020
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐIỀU DƯỠNG - Tập 3 Số 3 - Trang 28-32 - 2020
Mục tiêu: Mô tả thực trạng dinh dưỡng của người bệnh ung thư Đầu - Mặt - Cổ tại Bệnh viên Ung Bướu Nghệ An năm 2020. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang 100 người bệnh ung thư Đầu Mặt Cổ đang điều trị tại Bệnh viện Ung Bướu Nghệ An thời gian từ tháng 1 đến tháng 3 năm 2020. Sử dụng phương pháp phỏng vấn bảng câu hỏi để thu thập thông tin cá nhân và bộ công cụ PG-SGA để đánh giá tình trạng dinh dưỡng của người bệnh. Kết quả: Có 17% người bệnh có tình trạng dinh dưỡng PG-SGA, 54% người bệnh tình trạng dinh dưỡng PG-SGA B, 29% người bệnh tình trạng dinh dưỡng PG-SGA C. Kết luận: Phần đa người bệnh có tình trạng suy dinh dưỡng.
#Ung thư #ung thư đầu mặt cổ #dinh dưỡng
Thực trạng và một số yếu tố liên quan đến tình trạng dinh dưỡng Pg-Sga của người bệnh ung thư đầu mặt cổ tại Bệnh viện Ung Bướu Nghệ An năm 2020
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐIỀU DƯỠNG - Tập 3 Số 5 - Trang 198-207 - 2020
Mục tiêu: Mô tả thực trạng và xác định một số yếu tố liên quan đến tình trạng dinh dưỡng của người bệnh ung thư Đầu - Mặt - Cổ. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu thực hiện trên 100 người bệnh ung thư đầu mặt cổ tại Bệnh viện Ung Bướu Nghệ An từ tháng 1 đến tháng 3/2020 bằng phương pháp nghiên cứu mô tả cắt ngang. Số liệu được thu thập bằng bộ công cụ PG-SGA, khẩu phần ăn 24h và xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS 20.0. Kết quả: Tình trạng dinh dưỡng của người bệnh theo PG-SGA: Có 17% người bệnh có tình trạng dinh dưỡng PG-SGA A, 54% người bệnh tình trạng dinh dưỡng PG-SGA B, 29% người bệnh tình trạng dinh dưỡng PG-SGA C. Thói quen sử dụng thuốc lá/thuốc lào, tìm hiểu dinh dưỡng có mối liên quan với tình trạng dinh dưỡng PG-SGA với p<0,05. Phương pháp điều trị bệnh, giai đoạn bệnh, năng lượng khẩu phần ăn 24h có mối liên quan với tình trạng dinh dưỡng PG-SGA với p<0,05. Kết luận: Phần đa người bệnh có tình trạng suy dinh dưỡng. Thói quen sử dụng thuốc lá/thuốc lào, tìm hiểu dinh dưỡng có mối liên quan với tình trạng dinh dưỡng PG-SGA với p<0,05. Phương pháp điều trị bệnh, giai đoạn bệnh, năng lượng khẩu phần ăn 24h có mối liên quan với tình trạng dinh dưỡng PG-SGA với p<0,05.
#Ung thư #ung thư đầu mặt cổ #dinh dưỡng.
Đánh giá kết quả giảm đau trong mổ của phương pháp gây tê mặt phẳng cơ dựng sống thắt lưng hai bên dưới hướng dẫn của siêu âm ở bệnh nhân phẫu thuật cột sống thắt lưng
Nghiên cứu nhằm mục tiêu đánh giá kết quả giảm đau trong mổ của phương pháp gây tê mặt phẳng cơ dựng sống thắt lưng 2 bên dưới hướng dẫn của siêu âm ở bệnh nhân phẫu thuật cột sống thắt lưng. 30 bệnh nhân phẫu thuật cột sống thắt lưng theo chương trình được giảm đau trước mổ bằng phương pháp gây tê mặt phẳng cơ dựng sống thắt lưng dưới hướng dẫn của siêu âm tại Khoa Gây mê Hồi sức và Chống đau – Bệnh viện Đại học Y Hà Nội từ tháng 4 đến tháng 8 năm 2020. Ở nhóm gây tê mặt phẳng cơ dựng sống thắt lưng, điểm đau ANI tại thời điểm H5, H50, H80, H120, H150 trong mổ đều thấp hơn có ý nghĩa (p < 0,05), lượng fentanyl tiêu thụ thấp hơn (183,3[150 - 250] vs 343,3 [300 - 400]mg, p < 0,001) so với nhóm chứng. Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy phương pháp gây tê mặt phẳng cơ dựng sống thắt lưng 2 bên dưới hướng dẫn của siêu âm có hiệu quả giảm đau trong mổ tốt cho các phẫu thuật cột sống thắt lưng.
#gây tê mặt phẳng cơ dựng sống thắt lưng #giảm đau trong mổ #phẫu thuật cột sống thắt lưng.
46. SO SÁNH HIỆU QUẢ GIẢM ĐAU TRONG VÀ SAU PHẪU THUẬT CẮT PHỔI GIỮA PHƯƠNG PHÁP GÂY TÊ MẶT PHẲNG CƠ DỰNG SỐNG VỚI GÂY TÊ NGOÀI MÀNG CỨNG
Tạp chí Y học Cộng đồng - Tập 65 Số CD11 - Trang - 2024
Mục tiêu: Nghiên cứu được thực hiện nhằm so sánh hiệu quả giảm đau trong và sau phẫu thuật cắt phổi giữa phương pháp gây tê mặt phẳng cơ dựng sống liên tục (erector spinae plane block - ESPB) và gây tê ngoài màng cứng bằng Ropivacain 0,125% kết hợp với Fentanyl 1 mcg/1 ml. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang bao gồm 60 bệnh nhâncó chỉ định phẫu thuật cắt phổi được chia làm hai nhóm: 30 bệnh nhân giảm đau bằng phương pháp gây tê mặt phẳng cơ dựng sống (GTMPCDS) và 30 bệnh nhân được gây tê ngoài màng cứng (GTNMC) tại Bệnh viện Bạch Mai từ tháng 7/2023 đến tháng 9/2024. Kết quả: Tổng lượng fentanyl dùng trong mổ ở nhóm GTMPCDS và nhóm GTNMC không có sự khác biệt (p>0,05) (323,20 ± 35,2 và 320,87 ± 36,64 mcg). Lượng morphin tiêu thụ sau mổ trong 24 giờ của nhóm GTMPCDS là 541,67 ± 144,34 (mcg); ở nhóm GTNMC là 519,35 ± 151,74 (mcg). Sau 24 giờ 2 nhóm không cần bổ sung morphin. Điểm VAS khi nghỉ và vận động của nhóm GTMPCDS giảm có ý nghĩa thống kê gần tương tự như nhóm GTNMC. Chưa có sự khác biệt có ý nghĩa thông kê về tỷ lệ tác dụng không mong muốn giữa hai nhóm gây tê (p >0,05). Kết luận: Phương pháp GTMPCDS có hiệu quả tăng cường giảm đau trong mổ, giảm đau sau mổ tốt tương đương với GTNMC mà không gặp nhiều các biến chứng nặng.
#Gây tê mặt phẳng cơ dựng sống #gây tê ngoài màng cứng #phẫu thuật cắt phổi/thùy phổi #giảm đau
So sánh cách rạch môi dưới McGregor với cách rạch bậc cho việc cắt bỏ u ở bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào vảy miệng: Liệu điều này có ảnh hưởng đến kết quả chức năng và thẩm mỹ? Một nghiên cứu so sánh Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC - - Trang 1-6 - 2023
Cách tiếp cận trong miệng đối với u nằm ở phần sau của khoang miệng và chứng trismus gặp khó khăn trong việc đánh giá khối u và đạt được biên âm tính. Để có được tiếp cận đầy đủ và đạt được biên âm tính ở các khối u nằm phía sau, rạch môi dưới (LLS) đã được thực hành rộng rãi trong phẫu thuật đầu mặt cổ. Bài viết này nhằm so sánh rạch LLS McGregor và thiết kế rạch bậc để tiếp cận chức năng và thẩm mỹ sau phẫu thuật cắt bỏ. Nghiên cứu này được tiến hành trên 22 bệnh nhân được chẩn đoán mắc ung thư biểu mô tế bào vảy miệng cần rạch môi dưới để cắt bỏ khối u. Việc phân bổ ngẫu nhiên bệnh nhân được thực hiện bằng phương pháp bốc thăm trong hai nhóm đều nhau. Nhóm A được chọn để thực hiện rạch LLS McGregor, trong khi nhóm B thực hiện rạch LLS bậc. Các bệnh nhân được đánh giá về kết quả chức năng và thẩm mỹ cùng với các thông số thứ cấp như thời gian tiếp xúc và biến chứng sau phẫu thuật. Ở nhóm A, vào ngày thứ 7 sau phẫu thuật (POD 7), điểm trung bình là 2.36 ± 0.50 và vào ngày thứ 30 (POD 30) là 1.90 ± 0.53 trong khi đánh giá thẩm mỹ ở nhóm này, điểm trung bình tại POD 7 và 30 là 2.81 ± 0.98 và 3.27 ± 0.64, tương ứng. Ở nhóm B, tức là rạch LLS bậc (n = 11), kết quả chức năng, tại POD 7, điểm trung bình là 1.36 ± 0.67, và tại POD 30 là 1.09 ± 0.30 trong khi đánh giá thẩm mỹ ở cùng nhóm, điểm trung bình tại POD 7 và 30 là 3.90 ± 0.70 và 4.45 ± 0.68, tương ứng. Nghiên cứu hiện tại cho thấy sự cải thiện về chức năng và thẩm mỹ của bệnh nhân sau khi thực hiện rạch LLS bậc bằng cách cung cấp tiếp cận phẫu thuật đầy đủ.
#ung thư miệng #ung thư biểu mô tế bào vảy #rạch môi dưới #phẫu thuật đầu mặt cổ #chức năng #thẩm mỹ
Những đáp ứng mạnh mẽ và kéo dài của bệnh đa u tủy tái phát trong một thử nghiệm lâm sàng lần đầu trên người với T tế bào biểu hiện thụ thể kháng nguyên nhấp nhô (CAR) chống lại kháng nguyên trưởng thành bẩm sinh B (BCMA) với miền nhận diện kháng nguyên chỉ gồm chuỗi nặng hoàn toàn của người Dịch bởi AI
Blood - Tập 136 - Trang 50-51 - 2020

Các tế bào T biểu hiện các thụ thể kháng nguyên nhấp nhô (CAR) nhắm vào kháng nguyên trưởng thành B (BCMA) nhận diện và tiêu diệt bệnh đa u tủy (MM). BCMA được biểu hiện bởi hầu hết các trường hợp của MM. BCMA có một mô hình biểu hiện hạn chế trên các tế bào bình thường. Để giảm nguy cơ phản ứng miễn dịch của người nhận đối với các tế bào T CAR, chúng tôi đã sử dụng một miền gắn liên kết kháng BCMA hoàn toàn của người được gọi là FHVH33 thay vì một đoạn chuỗi biến thể đơn (scFv) truyền thống. Miền gắn FHVH33 thiếu chuỗi nhẹ, chuỗi liên kết nhân tạo và 2 vùng kết nối đi kèm của scFv. Chúng tôi đã xây dựng một CAR được gọi là FHVH33-CD8BBZ. FHVH33-CD8BBZ được mã hóa bởi một vector γ-retroviral và bao gồm các miền FHVH33, CD8α, miền muối và màng, miền kích thích đồng (4-1BB) và miền CD3ζ. Các tế bào T biểu hiện FHVH33-CD8BBZ được gọi là FHVH-BCMA-T.

Trong thử nghiệm lâm sàng này, các bệnh nhân nhận 300 mg/m2 cyclophosphamide và 30 mg/m2 fludarabine từ ngày -5 đến -3, sau đó là truyền FHVH-BCMA-T vào ngày 0. Đã có 21 lần truyền FHVH-BCMA-T được thực hiện ở 5 cấp độ liều (DL), 0.75x106, 1.5x106, 3x106, 6x106 và 12 x106 tế bào CAR+ T/kg trọng lượng cơ thể. DL4 (6 x 106 tế bào CAR+ T/kg) đã được xác định là liều tối đa có thể (MFD) sau khi xem xét độc tính, hiệu quả và các yếu tố sản xuất. Hiện tại, các bệnh nhân đang được tuyển trên một giai đoạn mở rộng để thử nghiệm MFD. Một bệnh nhân (Bệnh nhân 11) đã nhận 2 lần điều trị. Bốn bệnh nhân đã được chọn nhưng không được điều trị cuối cùng. Tuổi trung bình của các bệnh nhân được tuyển là 64 (phạm vi 41-72). Các bệnh nhân đã nhận một trung bình 6 dòng điều trị trước đó (phạm vi 3-12).

Trong số 20 lần điều trị FHVH-BCMA-T đánh giá được phản ứng, 18 lần (90%) dẫn đến các phản ứng khách quan (OR). Mười hai lần điều trị dẫn đến VGPR, đạt được thuyên giảm hoàn toàn (CR) hoặc thuyên giảm hoàn toàn nghiêm ngặt (sCR). Mười bệnh nhân (50%) có các phản ứng tiếp diễn kéo dài từ 0-80 tuần (6 sCR/CRs, 3 VGPRs, 1 PR). Tại hai DL cao nhất (8 bệnh nhân), 7 bệnh nhân (88%) có các phản ứng tiếp diễn (thời gian trung bình 20 tuần, phạm vi từ 0+ đến 35+ tuần); bệnh MM tiến triển chỉ xảy ra ở 1 bệnh nhân có bằng chứng bị chèn ép tủy sống vào ngày +5 do một plasmacytoma đang tăng trưởng nhanh, điều này yêu cầu can thiệp sớm bằng corticosteroid liều cao và xạ trị. Trong số 8 bệnh nhân được đánh giá phản ứng có các biến đổi di truyền nguy cơ cao ở giai đoạn đầu, 7 người có ORs. Các phản ứng vẫn tiếp diễn ở 2 bệnh nhân với các đột biến TP53 và 1 bệnh nhân có chuyển vị t(4;14).

Mười bệnh nhân đã điều trị rời khỏi nghiên cứu do MM tiến triển (9 bệnh nhân) hoặc tử vong vì nguyên nhân khác (1 bệnh nhân, cúm). Hai trong số 4 bệnh nhân có plasmacytomas được đánh giá về biểu hiện BCMA khi tái phát có bằng chứng của MM âm tính với BCMA. Bốn bệnh nhân có dịch tủy xương được đánh giá về biểu hiện BCMA trước khi điều trị và tại thời điểm tái phát; 3 trong số này có bằng chứng mất biểu hiện BCMA khi tái phát.

Trong số 21 lần điều trị FHVH-BCMA-T đã thực hiện, 20 lần (95%) có triệu chứng hội chứng giải phóng cytokine (CRS) với 16 (76%) trường hợp CRS mức độ 1 hoặc 2, 4 trường hợp (19%) CRS mức độ 3, và không có trường hợp CRS mức độ 4. Ba bệnh nhân đã nhận tocilizumab. Mức độ protein C-reactive cao nhất trung bình sau tất cả 21 lần điều trị là 196.9 mg/L. Trong số 21 lần điều trị, 8 lần (38%) có độc tính thần kinh; có 5 trường hợp độc tính thần kinh mức độ 1-2 (đau đầu, rối loạn phát âm, nhầm lẫn, mê sảng), 2 trường hợp độc tính thần kinh mức độ 3 (nhầm lẫn), và 1 bệnh nhân bị chèn ép tủy sống mức độ 4 do MM tiến triển. Hai bệnh nhân đã nhận corticosteroid để quản lý độc tính thần kinh.

Trung bình 3.0% (phạm vi 0-95%) tế bào T trong tủy xương là CAR+ khi được đánh giá bằng phương pháp lưu lượng tế bào sau 14 ngày truyền FHVH-BCMA-T. Chúng tôi đã đánh giá tế bào CAR+ trong máu bằng PCR định lượng. Mức độ cao nhất trung bình của tế bào CAR+ trong máu là 121 tế bào/µl (phạm vi 3-359 tế bào/µl) và ngày trung bình sau truyền có mức cao nhất của tế bào CAR+ trong máu là 12 (phạm vi 7-14).

Kết quả từ thử nghiệm giai đoạn 1 này cho thấy rằng các tế bào FHVH-BCMA-T có thể tạo ra các phản ứng sâu và bền vững của bệnh MM tái phát với các độc tính có thể quản lý. Đánh giá độ bền của các phản ứng ở liều tối đa có thể là một kế hoạch tương lai quan trọng. Việc thu hút vào nhóm mở rộng tiếp tục.

Bảng

Các khai báo về lợi ích

Manasanch: Novartis: Tài trợ nghiên cứu; Adaptive Biotechnologies: Thù lao; GSK: Thù lao; JW Pharma: Tài trợ nghiên cứu; Merck: Tài trợ nghiên cứu; Quest Diagnostics: Tài trợ nghiên cứu; Takeda: Thù lao; Sanofi: Thù lao; BMS: Thù lao; Sanofi: Tài trợ nghiên cứu. Rosenberg:Kite, công ty Gilead: Tư vấn, Bằng sáng chế & Royalty, Tài trợ nghiên cứu. Kochenderfer:Kite, một công ty Gilead: Bằng sáng chế & Royalty, Tài trợ nghiên cứu; Celgene: Bằng sáng chế & Royalty, Tài trợ nghiên cứu; bluebird, bio: Bằng sáng chế & Royalty.

#Tế bào T #thụ thể kháng nguyên nhấp nhô (CAR) #kháng nguyên trưởng thành B (BCMA) #bệnh đa u tủy #liệu pháp tế bào CAR #thử nghiệm lâm sàng.
Tổng số: 23   
  • 1
  • 2
  • 3